Phiên họp này nằm trong khuôn khổ Diễn đàn kinh tế Việt Nam do Chính phủ và Ban Kinh tế Trung ương phối hợp tổ chức trong hai ngày 16 và 17/1/2019 tại Hà Nội.

Tham dự có đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; đồng chí Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương. Cùng dự còn có đại diện các cơ quan Đảng, Chính phủ, các Bộ, ngành, doanh nghiệp, đại diện Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, ông John Kerry – cựu Ngoại trưởng Mỹ, Chủ tịch danh dự Quỹ Hòa bình quốc tế Carnegie.

Trong bài tham luận với tựa đề “Định hướng phát triển nền kinh tế số thành động lực tăng trưởng mới của Việt Nam”, Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng nhận định, “Công nghệ số - Chuyển đổi số - Kinh tế số - Kỷ nguyên số là một tiến trình không thể đảo ngược. Đây là một xu thế toàn cầu”. Thế giới vật lý đang được ảo hóa. Thế giới thực đang được ánh xạ vào không gian mạng. Quá trình sáng tạo, sản xuất kinh doanh ngày càng diễn ra nhiều hơn trên không gian mạng.

20190117-pg1-BT.jpg

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Phiên họp.

Với sự xuất hiện của CMCN 4.0, thế giới đang ở điểm gần của quá trình chuyển đổi số. Đây thực sự là cơ hội cho Việt Nam hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh.

Bộ trưởng cũng chỉ ra những lợi ích to lớn mà kinh tế số mang lại cho quốc gia, cho doanh nghiệp và người dân. Kinh tế số giúp tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Sự tăng trưởng này là bền vững vì sử dụng tri thức nhiều hơn tài nguyên, chi phí tham gia kinh tế số thấp hơn nên tạo ra cơ hội cho nhiều người tham gia hơn.

Công nghệ số là không biên giới, sẽ góp phần làm giảm khoảng cách nông thôn và thành thị. Công nghệ số đem lại cho chúng ta những cách tiếp cận mới, giải pháp mới để giải quyết hiệu quả những vấn đề tồn tại lâu dài như: ô nhiễm môi trường, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, đo lường tâm trạng xã hội, sự tham gia của người dân vào hoạch định chính sách.

Chuyển đổi số - cần sự dẫn dắt của Chính phủ

Cũng theo Bộ trưởng Bộ TT&TT, kinh tế số xuất hiện ở Việt Nam từ cuối những năm 1980 với sự xuất hiện của máy tính cá nhân; bắt đầu phát triển mạnh mẽ khi có Internet vào cuối những năm 1990 và trở nên phổ cập khi mật độ smartphone đạt trên 50% vào cuối những năm 2000. Đặc biệt nền kinh tế số tại Việt Nam được thúc đẩy mạnh mẽ khi xuất hiện CMCN 4.0 vào cuối những năm 2010.

Để kinh tế số thực sự phát triển mạnh tại Việt Nam rất cần sự dẫn dắt của Chính phủ, cần một chiến lược quốc gia về chuyển đổi số, kinh tế số. Bộ TT&TT đã chính thức được Thủ tướng Chính phủ giao xây dựng Đề án Chuyển đổi số quốc gia và Đề án sẽ được trình Thủ tướng ngay trong năm 2019. Đề án xác định rõ ai phải làm gì, trong bao lâu và bằng cách nào để đẩy nhanh quá trình số hóa, chuyển đổi số trên cả nước trên phạm vi cả nước trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội.

Nhân tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế số, từ đó thay đổi cách chúng ta sản xuất, cách chúng ta đang làm việc không ai khác chính là các doanh nghiệp số Việt Nam. Dùng công nghệ để giải quyết vấn đề Việt Nam, bài toán Việt Nam và từ cái nôi Việt Nam, các doanh nghiệp công nghệ này sẽ đi ra toàn cầu. Cuộc cách mạng toàn dân khởi nghiệp công nghệ số, phổ cập công nghệ số sẽ giúp Việt Nam số hóa nền kinh tế rất nhanh.

Chuyển đổi số - cuộc cách mạng về chính sách

Bên cạnh việc đem lại những vận hội mới, công nghệ số sẽ hình thành những mô hình kinh doanh mới, thay thế mô hình kinh doanh cũ và tạo ra những thách thức mới. Uber đang thách thức taxi truyền thống, Fintech thách thức ngân hàng truyền thống. Cho phép tài khoản viễn thông di động thanh toán hàng hóa giá trị nhỏ sẽ giải quyết bài toán thanh toán không dùng tiền mặt đến 100% người dân nhưng lại thách thức ngành ngân hàng.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng trăn trở, vấn đề của Chính phủ là có chấp nhận những mô hình kinh doanh mới này hay không. Do vậy, nhiều người nói rằng: Số hóa nền kinh tế là một cuộc cách mạng về chính sách nhiều hơn là cuộc cách mạng về công nghệ.

Chúng ta dám chấp nhận cái mới thì công nghệ mới của thế giới, người tài trên toàn cầu sẽ đến Việt Nam và nền công nghiệp mới sẽ xuất hiện. Cái nôi của Việt Nam sẽ tạo ra các sản phẩm công nghệ số có thể xuất khẩu được.  

Tuy nhiên, nếu dám chấp nhận cái mới nhưng là người sau cùng chấp nhận thì sẽ không có giá trị nhiều. Đi sau người khác, đi cùng người khác sẽ không có cơ hội thay đổi thứ hạng Việt Nam. Khi chấp nhận cái mới, chúng ta có thể mất một số thứ nhưng chúng ta không có quá nhiều thứ để mất và đó chính là cơ hội của Việt Nam.

Bộ trưởng cũng cho rằng, trong nền kinh tế số, nhiều nước trên thế giới đang áp dụng cách tiếp cận sandbox. Nghĩa là cái gì không biết quản thế nào thì cho nó được phát triển trong một không gian, thời gian nhất định để các vấn đề bộc lộ một cách rõ ràng và những vấn đề nảy sinh thường không nhiều như lúc đầu các nhà quản lý dự đoán. Từ đó, cơ quan quản lý mới hình thành chính sách, quy định quản lý cho những vấn đề mới chưa có tiền lệ. Đây là một trong những cách tiếp cận phù hợp với cuộc CMCN 4.0, phù hợp để đón nhận mô hình kinh doanh mới, đón nhận các start-ups, các sáng tạo mang tính phá hủy cái cũ.

4 yếu tố nền tảng thúc đẩy nền kinh tế số Việt Nam

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, những yếu tố mang tính nền tảng để hỗ trợ kinh tế số Việt Nam bao gồm: Thứ nhất là, hạ tầng Viễn thông – CNTT hiện đại ngang tầm thế giới, băng thông rộng, tốc độ cao, mỗi người dân có một điện thoại thông minh. Công nghệ 5G sẽ xuất hiện ở Việt Nam cùng nhịp với các nước phát triển;

Thứ hai là, các chính sách liên quan đến kinh tế số, công nghệ số, Internet phải có tính cạnh tranh toàn cầu để người Việt Nam không phải ra nước ngoài khởi nghiệp công nghệ số, mà còn để người nước ngoài, tài năng toàn cầu về Việt Nam phát triển công nghệ;

Thứ ba là, hình thành thị trường ban đầu của nền kinh tế số cho các doanh nghiệp công nghệ thông qua việc Chính phủ chi tiêu nhiều cho sản phẩm công nghệ số và xây dựng chính phủ điện tử.

Cuối cùng là đào tạo nguồn nhân lực. Song song với việc đào tạo tiếng Anh, CNTT từ bậc phổ thông thì phải thực hiện đào tạo lại, đào tạo nâng cao kỹ năng số, năng lực số cho người lao động. Các trường đại học, cao đẳng nên có các khóa chính thức đào tạo lại, đào tạo nâng cao kéo dài từ 6 – 12 tháng. Đây là cách tốt nhất để giải quyết việc thiếu trầm trọng nhân lực số.

Trên cơ sở đó, Bộ trưởng đề xuất Việt Nam có thể chọn chiến lược chuyển đổi số gồm ba bước.

Bước 1: Đẩy nhanh số hóa các lĩnh vực, các ngành công nghiệp, đẩy nhanh chuyển đổi số chính phủ. Chuyển đổi số trong DN, trong xã hội sẽ tăng năng suất lao động và tạo ra các cơ hội tăng trưởng mới.

Bước 2: Sử dụng số hóa như một lợi thế cạnh tranh trong nước và toàn cầu.

Bước 3: Tiến tới nền kinh tế số toàn diện, mọi lĩnh vực được số hóa, hình thành các ngành công nghiệp số mới. Các ngành công nghiệp này sẽ là động lực tăng trưởng cho nền kinh tế.

Cả cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp đều cần một sự đột phá trong tư duy, trong chính sách và trong hành động để thực hiện chuyển đổi số quốc gia thành công, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định.

Giang Phạm