Dù vẫn còn nhiều khó khăn cần sớm được tháo gỡ, song một số hệ thống thông tin dữ liệu đặc biệt quan trọng, liên quan tới quyền lợi sát sườn của người dân và doanh nghiệp đã dần được hoàn thiện và phát huy hiệu quả trong đời sống xã hội.

Chuẩn hóa dữ liệu của hơn 96 triệu người dân

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được xác định là 1 trong 6 cơ sở dữ liệu quốc gia được Chính phủ ưu tiên triển khai, giao cho Bộ Công an quản lý.

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được xác định là 1 trong 6 cơ sở dữ liệu quốc gia được Chính phủ ưu tiên triển khai, giao cho Bộ Công an quản lý, với nhiệm vụ trọng tâm là thu thập, cập nhật đầy đủ, chính xác kịp thời toàn bộ thông tin cơ bản của công dân Việt Nam trên hệ thống.

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư sẽ chuẩn hóa thông tin, qua đó sẽ cấp cho mỗi người dân một mã số định danh cá nhân duy nhất sử dụng từ khi sinh ra đến lúc mất đi. Thông qua số định danh cá nhân, các cơ sở dữ liệu chuyên ngành và các ban, ngành, địa phương sẽ kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để khai thác thông tin cơ bản về dân cư phục vụ công tác quản lý nhà nước và giải quyết thủ tục hành chính cho người dân. Từ đó, khắc phục tình trạng một người dân có nhiều mã số định danh cá nhân; hạn chế sự trùng lặp trong việc thu thập, cập nhật, quản lý thông tin về dân cư giữa các ngành, các cơ quan nhằm tránh lãnh phí và tạo sự đồng bộ thống nhất thông tin về dân cư; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, khắc phục tình trạng người dân phải kê khai thông tin, nộp bản chính hoặc bản sao các giấy tờ để chứng minh thông tin nhân thân như trước đây…

Trao đổi với phóng viên, Đại tá Trần Hồng Phú, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ Công an cho biết: Theo quy định của Luật Căn cước công dân cũng như Đề án 896 của Chính phủ, đặc biệt là Quyết định số 714 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng các cơ sở dữ liệu nền tảng phục vụ xây dựng Chính phủ điện tử, thì đến ngày 1/1/2020 phải hoàn thành xây dựng và đưa vào khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Tuy nhiên, cho đến đầu tháng 12/2019, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chưa được hoàn thành và đưa vào khai thác đúng tiến độ theo quy định. Nguyên nhân do đây là dự án CNTT phức tạp, có tổng mức đầu tư lớn, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ nhiều ngành, lĩnh vực, phạm vi triển khai dự án rộng lớn từ trung ương đến tận các xã, phường, thị trấn trên toàn quốc. Thời gian triển khai ngắn chỉ trong vòng 2 năm.

Để tổ chức triển khai dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đúng tiến độ, đảm bảo hiệu quả đúng Luật Căn cước công dân và quy định của Thủ tướng phê duyệt thì trước hết phải bố trí kịp thời, đủ nguồn vốn để tổ chức triển khai các hạng mục quan trọng của dự án như hạ tầng kỹ thuật, đường truyền, phần mềm, đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ vận hành, khai thác, sử dụng. Bộ Công an đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan tham mưu cho Chính phủ bổ sung dự án vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 để bố trí vốn triển khai dự án này.

Ngoài ra, phải tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan để hoàn thiện thể chế, chính sách, kịp thời cập nhật thông tin. Đến nay, Bộ Công an đã tổ chức thu thập toàn bộ thông tin công dân trên toàn quốc, tới đây sẽ nhập và chuẩn hóa dữ liệu, cấp số định danh cá nhân cho công dân để sớm đưa vào khai thác sử dụng, để đảm bảo đúng tiến độ thu thập hệ thống thông tin. 

Mới đây, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình, Trưởng Ban Chỉ đạo Đề án Tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư đã chỉ đạo Bộ Công an tập trung xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để đưa vào vận hành, khai thác trong năm 2020.

Trả lời câu hỏi của phóng viên: “Liệu mục tiêu này được hiện thực hóa sớm hơn dự kiến hay không?”, Đại tá Trần Hồng Phú khẳng định: Hiện nay, với sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ, sự chỉ đạo tập trung, ưu tiên mọi nguồn lực của Bộ Công an, sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả của các bộ,  ngành, địa phương, sự đồng thuận, ủng hộ của toàn bộ người dân và nếu được Chính phủ bố trí kịp thời nguồn vốn thì sẽ đảm bảo đúng tiến độ triển khai xây dựng và đưa vào khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo kế hoạch đề ra.

Minh bạch hoá thông tin, tiết kiệm chi phí đấu thầu

Chia sẻ với phóng viên, ông Nguyễn Đăng Trương, Cục trưởng Cục Quản lý Đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho biết: Việc ứng dụng CNTT trong đấu thầu qua mạng mang lại nhiều lợi ích cho công tác đấu thầu.

Bên cạnh tính minh bạch thông tin, đấu thầu qua mạng còn đảm bảo bí mật thông tin của các nhà thầu tham dự thầu trước thời điểm mở thầu, góp phần loại bỏ tình trạng thông thầu, “quân xanh, quân đỏ”.

Trước hết, giúp minh bạch thông tin. Theo đó, các thông tin trong quá trình lựa chọn nhà thầu được đăng tải công khai trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, bất kỳ ai có mạng Internet đều có thể tra cứu được, bao gồm từ thông tin về dự án (nếu là dự án đầu tư phát triển), kế hoạch lựa chọn nhà thầu, thông báo mời sơ tuyển, thông báo mời thầu, hồ sơ mời thầu, biên bản mở thầu, báo cáo đánh giá, kết quả lựa chọn nhà thầu. Tiến tới cả quá trình thực hiện hợp đồng cũng sẽ được công khai trên hệ thống. “Nhờ minh bạch hóa thông tin, đấu thầu qua mạng giúp giảm tình trạng kiện cáo, kiến nghị trong đấu thầu”, ông Trương nhìn nhận.

Đặc biệt, bên cạnh tính minh bạch thông tin, đấu thầu qua mạng còn đảm bảo bí mật thông tin của các nhà thầu tham dự thầu trước thời điểm mở thầu, góp phần loại bỏ tình trạng thông thầu, “quân xanh, quân đỏ” có thể xảy ra đối với đấu thầu truyền thống. 

Hơn thế nữa, như trước đây, bên mời thầu phải đợi 2 ngày làm việc để đăng tải thông tin về đấu thầu trên báo chí thì nay bên mời thầu tự đăng tải thông tin đấu thầu trên hệ thống bất kể thời gian nào, không phụ thuộc vào giờ hành chính. Các gói thầu đấu thầu qua mạng còn tiết kiệm thêm 3 ngày làm việc do quy định bên mời thầu phải phát hành hồ sơ mời thầu ngay sau khi đăng tải thông báo mời thầu. “Bên mời thầu chỉ mất 1-2 phút để thực hiện quá trình mở thầu trên mạng, không phải tổ chức buổi lễ mở thầu với sự tham gia của đại diện các bên. Thực tế có trường hợp một bên mời thầu đã mở 34 gói thầu qua mạng trong 1 ngày”, ông Trương nói.

Tính đến hết tháng 11/2019, các chủ đầu tư, bên mời thầu trên toàn quốc đã đăng tải hơn 111.087 thông báo mời thầu với tổng giá trị gói thầu là 764.602 tỷ đồng. Trong số đó đã có hơn 34.500 gói thầu được đấu thầu qua mạng (chiếm tỷ lệ 33.4% về số lượng) với tổng giá trị gói thầu là 104.986 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 19.8% giá trị), cao hơn gấp đôi so với năm 2018.

Mặc dù đấu thầu qua mạng vẫn giữ vững đà tăng trưởng qua từng năm, đặc biệt năm 2019 cả nước đã vượt chỉ tiêu về tỷ lệ giá trị nhưng về tỷ lệ số lượng gói thầu vẫn thấp hơn so với quy định. Lý giải điều này, Cục trưởng Cục Quản lý Đấu thầu cho biết vẫn còn một số lượng không nhỏ chủ đầu tư, bên mời thầu có tâm lý “ngại”, không muốn áp dụng đấu thầu qua mạng.

Bất cập thứ hai, là do đến thời điểm hiện tại, hệ thống vẫn đang được vận hành, nâng cấp trên cơ sở hệ thống do Hàn Quốc bàn giao từ năm 2009. Mặc dù Bộ Kế hoạch và Đầu tư thường xuyên chỉnh sửa, nâng cấp chức năng hệ thống, nhưng để mở rộng thêm các tính năng khác nhằm thuận tiện hơn cho người sử dụng, ứng dụng các công nghệ mới thì rất khó khăn.

Trước những tồn tại này, Cục đã đề ra các giải pháp đồng bộ. Đáng chú ý là bắt buộc công khai tất cả các hồ sơ mời thầu đấu thầu trực tuyến trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia và ban hành lộ trình áp dụng giai đoạn 2019-2025 theo hướng bắt buộc 100% các gói thầu theo hạn mức nhất định và tính chất gói thầu phải đấu thầu qua mạng; Gắn trách nhiệm của người đứng đầu trong việc triển khai áp dụng đấu thầu qua mạng như một chỉ tiêu đo lường cả về kinh tế và phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong phạm vi quản lý của cơ quan, đơn vị…

Tài chính điện tử: Hiệu quả không chỉ từ những con số

“Nộp thuế bây giờ tiện và nhàn chứ! Quy trình thuế điện tử đơn giản và tiết kiệm thời gian trong quy trình nộp báo cáo thuế hàng kỳ. Tôi hoàn toàn có thể chủ động trong công việc của mình”, Thanh Mai, nhân viên kế toán thuế của một doanh nghiệp phấn khởi bày tỏ. Mai là một trong những người được thụ hưởng các dịch vụ tiện ích mà ngành thuế nói riêng và ngành tài chính nói chung mang lại nhờ ứng dụng hiệu quả CNTT từ sớm.

Chia sẻ về những thành quả trong đầu tư, triển khai ứng dụng CNTT vào hoạt động nghiệp vụ và cải cách thủ tục hành chính, ông Nguyễn Đại Trí, Cục trưởng Cục Tin học và Thống kê tài chính, Bộ Tài chính cho biết: Một trong những ưu tiên hàng đầu mà Bộ Tài chính tập trung triển khai trong thời gian qua là ứng dụng CNTT phục vụ người dân và doanh nghiệp. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính và các Tổng cục đã triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với 978 thủ tục, trong đó, 310 dịch vụ đã ở mức độ 4.

Theo thống kê, hiện nay, dịch vụ khai thuế điện tử đã đạt 99,98% số doanh nghiệp sử dụng trên tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trong cả nước; 99% doanh nghiệp đăng ký sử dụng dịch vụ nộp thuế điện tử và gần 95% thực hiện hoàn thuế điện tử. Trong khi đó, ở lĩnh vực hải quan, gần 100% doanh nghiệp đã tham gia thực hiện thủ tục hải quan bằng phương thức điện tử.

Tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ đang đặt ra ngày càng cấp bách trong phát triển Chính phủ điện tử, Bộ Tài chính đã nhanh chóng ban hành Kế hoạch hành động cho toàn ngành trong giai đoạn 2019 – 2020, định hướng đến năm 2025 ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 17/NQ-CP về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử. Kế hoạch hành động nêu rõ quyết tâm và mục tiêu hoàn thiện nền tảng Chính phủ điện tử của Bộ Tài chính nhằm nâng cao ứng dụng CNTT trong công tác quản lý, công khai minh bạch hoạt động quản lý nhà nước của Bộ Tài chính trên môi trường mạng, bảo an toàn thông tin và an ninh mạng, đẩy mạnh phát triển Chính phủ điện tử, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ công của Bộ Tài chính, đảm bảo phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn; phát triển Tài chính điện tử dựa trên dữ liệu và dữ liệu mở hướng tới Tài chính số.

Rất nhiều con số được đưa ra trong từng giai đoạn, nhưng điểm chung của những con số mục tiêu này là đều hướng đến xây dựng và vận hành các hệ thống thông tin dữ liệu có liên quan đến người dân; cung cấp được dịch vụ công và có thể mang lại sự hài lòng cao nhất cho người dân, doanh nghiệp khi giải quyết thủ tục hành chính.

Y tế thông minh không còn xa

Theo TS. Trần Quý Tường, Cục trưởng Cục CNTT, Bộ Y tế, trong những năm qua, ngành y tế đã đẩy mạnh ứng dụng CNTT, tạo bước đột phá quan trọng để chuyển đổi số hóa y tế, đặc biệt là số hóa bệnh viện, hướng tới bệnh viện thông minh, góp phần vận hành Chính phủ điện tử trong ngành Y.

Với hệ thống khám bệnh, chữa bệnh thông minh, người dân sẽ được sử dụng các dịch vụ khám chữa bệnh tiên tiến và thuận lợi, hạn chế nhiều rủi ro.

Đến nay, 100% bệnh viện trên toàn quốc triển khai hệ thống thông tin bệnh viện (HIS); 3 bệnh viện công bố sử dụng và lưu trữ hồ sơ bệnh án điện tử thay bệnh án giấy; 20 bệnh viện sử dụng hệ thống thông tin lưu trữ và thu nhận hình ảnh (PACS) không cần in phim; ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt được triển khai rộng khắp; nhiều bệnh viện đã ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), Internet kết nối vạn vật (IoT) trong y tế.

Đặc biệt, Bộ Y tế đã phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam triển khai thành công việc kết nối liên thông giữa các cơ sở khám chữa bệnh cả nước với cơ quan bảo hiểm xã hội. Cho tới nay đã có 99,5% các cơ sở khám chữa bệnh trên cả nước kết nối liên thông với hệ thống giám định của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Một số hệ thống thông tin y tế có quy mô quốc gia đã được triển khai như: Hệ thống quản lý thông tin tiêm chủng, Hệ thống ngân hàng dữ liệu dược, Hệ thống thông tin quản lý chuyên ngành dân số - kế hoạch hóa gia đình, Hệ thống thống kê y tế điện tử, Hệ thống quản lý hồ sơ sức khỏe điện tử, ... .

Bộ Y tế đặt mục tiêu từ nay tới năm 2025, ngành y sẽ chú trọng đẩy mạnh các mục tiêu số hoá như tập trung triển khai nền hành chính y tế điện tử.

Ngay trong năm 2020 sẽ hoàn thành cổng dịch vụ công trực tuyến và hệ thống thông tin một cửa điện tử về thủ tục hành chính; Tăng cường xây dựng, triển khai các dịch vụ công trực tuyến của Bộ Y tế kết nối hệ thống một cửa quốc gia, một cửa ASEAN, bảo đảm 50%  số dịch vụ công trực tuyến của Bộ Y tế có số lượng hồ sơ lớn đạt mức 3, mức 4 vào năm 2020, 100% vào năm 2025.

Bên cạnh đó, sẽ thực hiện trao đổi, liên thông dữ liệu giữa phần mềm thống kê y tế với các phần mềm khác như phần mềm quản lý y tế xã phường, hồ sơ sức khỏe điện tử, bệnh án điện tử; Hoàn thành cơ sở dữ liệu y tế quốc gia; Ứng dụng các công nghệ thông minh để phân tích số liệu về hoạt động y tế kịp thời, chính xác, giúp dự báo về diễn biễn tình trạng sức khỏe, bệnh tật trong cộng đồng, từ đó có các chính sách quản lý y tế phù hợp; Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin quản lý các cơ sở y tế, triển khai trên hệ thống bản đồ số, hỗ trợ người dân tìm kiếm các cơ sở y tế phù hợp được thuận lợi, dễ dàng.

Bên cạnh những kết quả đạt được, ông Tường cũng thẳng thắn chia sẻ về một số khó khăn trong vận hành Chính phủ điện tử ngành Y tế, đó là hạ tầng CNTT tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thiếu đồng bộ; các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh còn lúng túng, không biết cần phải đầu tư, nâng cấp những hạng mục gì để có thể triển khai được hồ sơ bệnh án điện tử; nhiều cơ sở y tế còn thiếu tiêu chuẩn kết nối, liên thông dữ liệu giữa các hệ thống thông tin y tế tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Ông Tường lưu ý, muốn đạt được tiêu chí bệnh viện thông minh thì các cơ sở y tế phải đầu tư nâng cấp ứng dụng CNTT đạt tối thiểu mức 6 theo quy định tại Thông tư số 54/2017/TT-BYT, hoàn thiện hồ sơ bệnh án điện tử theo quy định tại Thông tư số 46/2018/TT-BYT, đẩy mạnh việc thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh không dùng tiền mặt tiến tới không sử dụng bệnh án giấy, ứng dụng trí tuệ nhân tạo hỗ trợ ra quyết định lâm sàng...

Với hệ thống khám bệnh, chữa bệnh thông minh, người dân sẽ được sử dụng các dịch vụ khám chữa bệnh tiên tiến và thuận lợi, hạn chế nhiều rủi ro, tai biến khi điều trị, tiết kiệm được thời gian và chi phí khám chữa bệnh.