Lời tòa soạn: Hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia 10/10, Báo VietNamNet mở mục “Đóng góp ý tưởng Chuyển đổi số”, góp phần lan tỏa những kinh nghiệm tốt, những bài học hay, các nhân vật tiêu biểu và những câu chuyện cả thành công và chưa thành công của các cơ quan, tổ chức, địa phương, doanh nghiệp cũng như người dân trong hành trình chuyển đổi hoạt động lên môi trường số.

Sau đây VietNamNet xin giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Đặng Phạm Thiên Duy, Giảng viên cấp cao, Chủ nhiệm cấp cao chương trình Tiến sĩ tại Khoa Kinh doanh và Quản trị, Đại học RMIT.

Việt Nam hướng đến mục tiêu trở thành quốc gia số vào năm 2030, tập trung vào các hoạt động chuyển đổi số liên quan đến chính quyền, người dân và doanh nghiệp. Song song với nỗ lực để đạt được mục tiêu này, tôi cho rằng vẫn cần xét đến một vài cân nhắc.

Tiến sĩ Đặng Phạm Thiên Duy, Giảng viên cấp cao Đại học RMIT. (Ảnh: M.Ngọc)

Thực tế, hơn 90% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa. Nguồn lực hạn chế và khuynh hướng ưu tiên các mục tiêu ngắn hạn khiến việc chuyển đổi số của các doanh nghiệp này khó khăn. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải thận trọng hơn trong lựa chọn các giải pháp chuyển đổi số thiết thực và có ý nghĩa, cũng như chuyên nghiệp hóa phương pháp kinh doanh để đo lường chính xác hơn hiệu quả của hành trình chuyển đổi số. 

Nói cách khác, chuyển đổi số là cơ hội để chủ doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa xem xét sâu hơn về tổ chức của mình, về các năng lực chuyển đổi cũng như cơ hội để tạo ra giá trị cho những khách hàng trong kỉ nguyên mới.

Nhìn xa hơn ra khỏi ranh giới của từng doanh nghiệp, vẫn còn rất nhiều điều cần thiết phải làm nhằm hướng đến mục tiêu chuyển đổi số quốc gia. Báo cáo về chuyển đổi số tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa toàn cầu do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - OECD thực hiện năm 2021 cho thấy, chúng ta thiếu trầm trọng dữ liệu và thông tin về áp dụng công nghệ số của gần như toàn bộ các doanh nghiệp siêu nhỏ, dù đây là đối tượng chiếm đa số trong bức tranh chuyển đổi số tại Việt Nam. 

Sự chênh lệch trong tài lực cũng như các kiến thức cần thiết về chuyển đổi số đang khiến “khoảng cách số” bị mở rộng đáng kể, tạo ra cạnh tranh gắt gao hơn trên thị trường. Bên cạnh đó, những khách hàng thế hệ Z với hành vi và nhu cầu tiêu dùng dần trở thành đối tượng tiêu tiền chính trong tương lai gần, tạo thêm áp lực bắt buộc các doanh nghiệp phải chuyển đổi số - bắt đầu bằng cải tiến tư duy nhận thức và lập ra lộ trình phù hợp, làm một “bệ phóng” vững chắc trước những thay đổi chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai. 

Để thu hẹp khoảng cách số nói trên, tôi cho rằng rất cần sự chung tay của chính quyền, doanh nghiệp, nhà đầu tư, và cả người dân để tạo lập một hệ sinh thái chuyển đổi số phù hợp cho toàn bộ các đối tượng cần thiết.

Về phía người dân, khoảng cách số càng thể hiện rõ giữa các khu vực, thành phố có tốc độ và chỉ số phát triển đặc biệt là về hạ tầng công nghệ, khác nhau. Ngoài việc một bộ phận người dân chuyển đổi số chậm hơn khiến họ bị bỏ lỡ các cơ hội trong cuộc sống (ví dụ việc làm, mua sắm trực tuyến, tiếp cận kiến thức…), khoảng cách số còn tạo ra những hậu quả nghiêm trọng hơn liên quan đến các hành vi trực tuyến và trên mạng xã hội. 

Chẳng hạn như, vấn nạn tin giả trong đợt dịch Covid-19 vừa qua hoặc các tin tức về tài khoản, thông tin cá nhân bị chiếm đoạt bởi tin tặc hay bị rò rỉ bởi sự bất cẩn của chính người dùng, hay văn hóa trực tuyến xấu xí và bắt nạt trực tuyến là những vấn đề có liên quan chặt chẽ đến khoảng cách số nói trên.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, đó chính là yếu tố bền vững trong câu chuyện chuyển đổi số. Phát triển bền vững và chuyển đổi số có thể sẽ được cho là 2 vấn đề đối nghịch nhau, vì thường các nỗ lực và tiến trình gì nhanh và mạnh (như chuyển đổi số) thì sẽ khó đảm bảo được tính bền vững. Khái niệm bền vững ở đây, ngoài hàm ý liên quan đến lợi nhuận và sự phát triển vững vàng của doanh nghiệp trong thị trường đầy cạnh tranh, còn liên quan đến môi trường và xã hội.

Liên Hợp Quốc đã công bố 17 mục tiêu phát triển bền vững làm kim chỉ nam cho các hoạt động kinh tế xã hội toàn cầu nhằm đảm bảo hòa bình và thịnh vượng chung cho các quốc gia vào năm 2030. Tương tự, nhiều nhà đầu tư hiện nay đã quan tâm sử dụng bộ tiêu chuẩn ESG để đánh giá độ ảnh hưởng của các khoản đầu tư và doanh nghiệp lên môi trường và cộng đồng xã hội. Các doanh nghiệp và tổ chức tiến hành chuyển đổi số vì vậy cần phải quan tâm đến yếu tố bền vững trong hoạt động kinh doanh của mình, bên cạnh các mối quan tâm về chuyên môn kĩ thuật. 

Lấy ví dụ, dữ liệu của người dùng và khách hàng, ngoài việc được sử dụng bởi các công nghệ số, sẽ còn được sử dụng cho các mục đích nào khác? Việc áp dụng công nghệ sẽ ảnh hưởng đến người lao động chân tay như thế nào? Rác thải công nghệ từ quá trình chuyển đổi số sẽ được xử lý ra sao? Việc áp dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo để đưa ra quyết định tự động về tuyển dụng có đảm bảo được tính công bằng cho các ứng viên?…

Là người làm nghiên cứu khoa học, tôi và các đồng nghiệp tại Đại học RMIT luôn mong muốn đồng hành cùng Chính phủ, doanh nghiệp, và người dân thông qua các dự án hợp tác tạo tác động thực tiễn lên hành trình chuyển đổi số của cả nước. Hai chuyến tập huấn chuyển đổi số cho các tỉnh Đắk Nông và Bình Phước vào tháng 8 và 9/2022 là ví dụ cụ thể của nỗ lực này, và sắp tới chúng tôi sẽ tiếp tục tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo, cũng như đồng hành với các hội doanh nghiệp và doanh nghiệp để xuất bản nghiên cứu, sách, và báo cáo về chủ đề chuyển đổi số tại Việt Nam.

Tiến sĩ Đặng Phạm Thiên Duy, Đại học RMIT